Tài nguyên Đức_Huệ

Tài nguyên Đất

Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000 năm 1998 của Phân viện Quy hoạch

Toàn huyện có 3 nhóm đất với 9 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa nhiễm phèn 3.063 ha (chiếm 7,11% diện tích tự nhiên), nhóm đất xám có 15.523 ha (chiếm 36,02% diện tích tự nhiên) và nhóm đất phèn 24.024 ha (chiếm 55,75% DTTN)[1]. Như vậy, 100% diện tích đất của huyện Đức Huệ thuộc loại đất có vấn đề, do đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được xem là một hạn chế lớn nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đức Huệ.

Đất huyện Đức Huệ xếp ở cấp ít thích nghi hoặc phải cải tạo mới thích nghi với 2 vụ lúa, mía, đậu phộng, đậu đỗ nên cây sinh trưởng phát triển cho năng suất thấp hơn các vùng đất tốt (đất phù sa). Vì vậy, đây cũng là một hạn chế trong sản xuất nông nghiệp.

Đất đai của huyện Đức Huệ hình thành từ hai loại trầm tích: Trầm tích phù sa non trẻ (Holocene) và trầm tích phù sa cổ (Pleistocene); trong đó đa số là trầm tích Holocene có chứa vật liệu sinh phèn.

  • Trầm tích Holocene bao phủ trên 60% diện tích tự nhiên của huyện, nó phủ trùm lên trầm tích phù sa cổ.
  • Mẫu chất phù sa cổ bao trùm gần 36% diện tích tự nhiên.
  • Trầm tích không phân chia khoảng 4% diện tích tự nhiên.

Do vậy, khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cần tính toán đầu tư đảm bảo độ ổn định bền vững.

Tài nguyên rừng

Năm 1995 diện tích rừng chỉ có 676 ha[1], trong đó tràm cừ 510 ha; đến năm 2000 diện tích rừng tăng lên 5.931 ha (tỷ lệ che phủ 14,69%) kể cả cây lâu năm, trong đó bạch đàn 2.535 ha, tràm cừ 2.437 ha, tràm bông vàng 959 ha. Rừng mới trồng từ năm 1997 - 1999 nên trữ lượng không lớn.

Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 327/CT, 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.

Tài nguyên thủy sản

Qua điều tra của Viện Nghiên cứu Thủy sản II, có nhận xét[1]:

  • Thủy sinh vật có đến 334 loài, gồm: 181 loài tảo, 93 loài động vật nổi, 60 loài động vật đáy.

Ngoài ra, do môi trường nước nội đồng ngày càng được ngọt hóa, độ chua và thời gian ảnh hưởng chua phèn giảm, tạo điều kiện để các loài thủy sản về cư trú và phát triển, mở ra hướng đi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi.

Tài nguyên khoáng sản

Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Đức Huệ nghèo về khoáng sản[1].

  • Hiện tại ở một số lung phèn có than bùn, tập trung nhiều ở xã Mỹ Quý Tây, trấp Mốp Xanh, lớp than bùn dày 0,75 - 1,50m. Thành phần than bùn có độ tro thấp, mùn cao, lượng khoáng cao, có thể sử dụng làm phân bón hoặc chất đốt; song cần tính toán kỹ nếu muốn khai thác, bởi khai thác than bùn sẽ tạo điều kiện gia tăng oxyt hóa phèn, giảm pH, tăng độc tố trong dung dịch đất.
  • Cát trên sông Vàm Cỏ Đông từ cửa Rạch Tràm đến đầu kênh Trà Cú Thượng có trữ lượng khoảng 1 triệu m3, song khai thác phải quản lý chặt chẽ, tránh làm thay đổi dòng chảy và hủy hoại môi trường.